Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?

Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?

Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?

Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?

Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
 0908 292 604

Giới thiệu

Nghề luật sư được xã hội nhìn nhận là một trong những nghề cao quý nhưng cũng có không ít khó khăn, thử thách và cả những nguy hiểm cho người hành nghề. Nghề luật sư được coi là cao quý vì “hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” (Điều 3-Luật Luật sư). Nghề này cũng gặp không ít khó khăn, thử thách và nguy hiểm vì đây đó vẫn còn những hành vi “cản trở hoạt động hành nghề của luật sư”.

Có áp dụng thời hiệu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?

16-10-2023 - .Lượt xem 326

BLTTDS năm 2015 được ban hành đã tháo gở những khó khăn vướng mắc mà trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự mà BLTTDS năm 2004 chưa quy định. Tuy nhiên, sau hơn bốn tháng áp dụng vào thực tế, BLTTDS năm 2015 đã bước bộc lộ một số khó khăn nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành. Trong bài viết này, tác giả xin đề cập đến vướng mắc trong việc xem xét hủy quyết định cá biệt trong vụ án dân sự, cụ thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 BLTTDS năm 2015 quy định: 1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết; 2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.

Khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016) quy định: 1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể; 2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Ngày 19/9/2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; trong đó, có giải thích rằng: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính. Như vậy, khi cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một chủ thể nào đó, mà đương sự trong vụ án dân sự cho rằng việc cấp giấy đó là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó trong cùng một vụ án dân sự theo Điều 34 BLTTDS năm 2015.

Trong các vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất, nếu đương sự có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân có thẩm quyền đã cấp cho một trong các bên, thì Tòa án phải xem xét việc cấp giấy đó có đúng hay không để giải quyết trong cùng một vụ án dân sự. Trước khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thì việc giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Tòa án hai cấp không xem xét đến việc còn thời hiệu hay không. Vì theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 (viết tắt là TTLT 01/2014), hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS năm 2004: Tòa án không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 154 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016) quy định: Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực. Như vậy, khi BLTTDS năm 2004 hết hiệu lực thi hành thì TTLT 01/2014 cũng đồng thời hết hiệu lực.

Vì vậy, khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành thì không thể áp dụng Điều 5 TTLT 01/2014 để xác định: không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật. Vậy, khi áp dụng Điều 34 BLTTDS năm 2015 để xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong vụ án dân sự thì Tòa án có áp dụng thời hiệu theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính năm 2015 hay không? Vấn đề này, hiện nay có hai quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: theo khoản 4 Điều 154 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì hiện nay TTLT 01/2014 đã hết hiệu lực; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong thời gian chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 34 BLTTDS năm 2015 thì cần phải áp dụng thời hiệu khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nếu có xem xét yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thời hiệu không còn thì Tòa án có thể kiến nghị Ủy ban nhân dân có thẩm quyền thu hồi giấy để cấp lại cho đúng quy định.

Quan điểm thứ hai cho rằng tại khoản 4 Điều 34 BLTTDS năm 2015 có quy định: thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, khi xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong cùng vụ án dân sự, thì thẩm quyền của Tòa án xác định theo Luật tố tụng hành chính, không thể vận dụng thời hiệu khởi kiện quyết định cá biệt theo Luật tố tụng hành chính để áp dụng trong trường hợp này. Các vụ tranh chấp đất đai hiện nay, đa số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến diện tích đất tranh chấp được cấp giấy đã lâu. Nếu xác định thời hiệu khởi kiện theo Luật tố tụng hành chính thì đa số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của đương sự và có căn cứ cho rằng việc cấp giấy đó không quy định, nếu Tòa án không xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thì việc giải quyết vụ án không triệt để và khi án có hiệu lực thì không thể thi hành được.

Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao chưa có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 34 BLTTDS năm 2015 nên những người tiến hành tố tụng còn lúng túng khi áp dụng thời hiệu giải quyết các trường hợp hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong vụ án dân sự. Do đó, đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp này, để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.

Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Phi

Nguồn tin: Phòng 9 – VKSND TP. Cần Thơ

Bài viết liên quan

  • Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định được quy định tại Chương XXI Bộ luật Dân sự năm 2005 với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm hại và phòng ngừa, răn đe những hành vi gây thiệt hại trong trường hợp các bên không xác lập hợp đồng.
  • Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu sản xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên việc quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các quốc gia quan tâm và được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
  • Án lệ số 06/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
  • Trại nuôi heo của bà B có hơn 300 con heo. Toàn bộ nước thải, phân heo được xả thẳng ra một hồ chứa rộng khoảng 500 m2. Sau đó, nước thải chảy ra sông. Nước thải tại hồ chứa nổi bọt trắng và bốc mùi hôi thối. Anh T cho biết vào những ngày nắng nóng, mùi phân heo bốc lên nồng nặc, mùi hôi thối xông vào nhà rất khó chịu. Ngày nào đi làm thì thôi chứ ở nhà là phải đeo khẩu trang và cửa nhà luôn đóng kín. Nhiều lúc gia đình anh phải bỏ dở bữa cơm vì mùi hôi thối thốc vào. Chị H than thở: Biết rằng việc chăn nuôi nhằm mục đích mưu sinh nhưng chủ trại heo cũng phải nghĩ đến sức khỏe của các hộ dân xung quanh. Sống trong bầu không khí bị ô nhiễm thế này thì làm sao chúng tôi chịu nổi. Giờ bà B lại đang muốn mở rộng trang trại, vậy người dân cần gửi yêu cầu tới cơ quan nào? Cơ quan nào sẽ giải quyết những yêu cầu về vấn đề ô nhiễm tại trại nuôi heo?
  • Hai bạn sinh viên được bố mẹ gửi tiền lên nhưng không may trong đó có 1 tờ tiền giả mà 2 em không biết. Hai em này vào siêu thị mua hàng và khi trả tiền thì bị nhân viên và bảo vệ siêu thị giữ lại, bắt nộp phạt 600.000đ. Xử lý như vậy có đúng không?
  • Gia đình tôi sống ở thành phố Hải Phòng. Bố tôi dự định xây tạm một nhà kho nhỏ để chứa đồ đạc, bên cạnh ngôi nhà đang ở. Vậy cho hỏi bố tôi có cần xin giấy phép xây dựng không? Bố tôi có lên Phòng Quản lí đô thị hỏi thì cán bộ Phòng nói rằng chỉ xây nhà tạm nên chỉ cần tới UBND phường xin là được. Nhưng khi bố tôi đến UBND phường thì phường nói lên Phòng QLĐT xin và phải có công văn hoặc giấy phép từ Phòng QLĐT mới được phép xây dựng. Vậy bố tôi cần xin tại cơ quan nào?
  • Em học mới ra trường, người yêu em có bạn quen biết bên Sở giáo dục nên người yêu em nhờ bạn giúp xin việc cho em. Người bạn đó đồng ý nhưng bên em phải chồng cho anh ấy 300 triệu để xin việc. Sau khoảng 2 năm dạy hợp đồng tại một trường trung học cơ sở thì gia đình em có đến hỏi khi nào thì được được vào dạy biên chế nhưng anh ấy luôn lấy cớ để trì hoãn hoặc không gặp mặt. Gia đình em làm căng vấn đề lên thì anh ấy mới nói là phải chờ đến năm 2020 mới chạy được và chỉ trả lại cho nhà em 70 triệu đồng. Giờ nhà em muốn hủy Hợp đồng, đòi lại tiền có được không ạ? Chứng cứ liên quan gồm Hợp đồng công việc giữa gia đình em với anh đó (Cam kết 2020 sẽ vào biên chế), Bản ghi âm các cuộc gọi trao đổi trong thông tin (trong khoảng 2 năm) Vậy với những chứng cứ trên thì liệu em có cơ hội đòi lại tiền không? Anh bạn kia sẽ bị xử phạt ra sao? Em xin cảm ơn.
  • Em rể em bị tai nạn giao thông và mất trên đường đi cấp cứu. Người điều khiển xe gây tai nạn đã bỏ chạy ngay khi gây tai nạn. Người dân bên đường đã đưa em rể đi cấp cứu và báo gia đình biết tin cũng như biển số xe gây tai nạn. Trong khi tổ chức đám tang, người nhà của người gây tai nạn có đến và đưa nhà em 30 triệu nói là tiền phúng viếng. Sau đó khoảng 2 tháng sau người nhà em có lên công an muốn biết vụ án được tiến hành tới đâu, công an cho hay khi nào có tin tức sẽ liên hệ với người nhà em. Nhưng mới tuần trước nhà em lại lên công an thì họ nói lỗi hoàn toàn là do bố vợ em, trong biên bản cũng không hề nhắc tới vấn đề người điều khiển xe máy đã uống rượu và bỏ chạy. Vậy nhà em cần làm gì để đòi lại công bằng cho em rể em?
  • Gia đình tôi có năm anh em. Ba tôi đã mất (không để lại di chúc), chỉ còn mẹ. Ba mẹ tôi cùng tạo dựng căn nhà đã lâu (50 năm). Một em trai của tôi lập gia đình ở riêng và đã mất, nay cô em dâu có chồng chết này đến nhà đòi mẹ tôi phải ký giấy di chúc cho cô được chia phần của chồng (cô đã có ba con với em tôi). Xin hỏi yêu cầu của cô em dâu có đúng pháp luật không?

Hổ trợ trực tuyến

Hotline0908 292 604
  Mr. Quynh
0908 292 604

Văn bản pháp luật

  • Văn bản 2
  • Văn bản 1

Sơ đồ đường đi

 

 

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ BÌNH TÂN
Trụ sở: 840/31/1 Hương lộ 2, P. Bình Trị Đông A,  Quận Bình Tân, Tp. HCM
Văn phòng giao dịch: 60A Miếu Gò Xoài, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
 
Trưởng văn phòng: Luật sư Nguyễn Văn Quynh
Điện thoại: 0908. 292. 604 
Emai: quynhsaigontre@gmail.com
Zalo
Hotline